Thứ Sáu, 7 tháng 12, 2007

Theo dấu chân những người "khổng lồ"

Theo dấu chân những người "khổng lồ"
Thứ ba, 04/12/2007


Cuối tháng 10-2007, từ Tây An (Thiểm Tây, Trung Quốc), đoàn chúng tôi gồm 12 người đã lên đường theo nhánh bắc của tuyến Con đường tơ lụa ngày xưa bằng xe ca, tàu lửa, lạc đà và cả xe ngựa, xe lửa qua Gia Dụ Quan, Tửu Tuyền, Đôn Hoàng... tới thành cổ Cao Xương, thành cổ Giao Hà, Hỏa Diệm Sơn, Urumqi... đến tận A La Sơn Khẩu - giáp biên giới Kazakhstan (Tân Cương). Chiều dài hơn 8.000km cho hai lượt đi về.
Mời bạn khám phá Con đường tơ lụa, một trong những con đường vĩ đại nhất mà cổ nhân đã tạo nên như một kỳ tích của sức mạnh con người. Chiều Tây An. Chúng tôi chạy đua với thời gian cho kịp trước khi hoàng hôn nhuộm màu. Dãy tượng đài Thương lữ đại đạo dài chừng 40m, cao hơn 3m, nằm yên lặng giữa sắc thu vàng trong một công viên nhỏ, bên con đường mang tên Tây An Đại Khánh. Những cặp tình nhân đang tận hưởng giây phút bên nhau bất ngờ trước những vị khách lạ cứ say sưa quay phim, chụp ảnh. Sắc đỏ của khối sa thạch tượng đài khắc tạc vào không gian cái mạnh mẽ của gió cát sa mạc, với dáng điệu của 12 con lạc đà, hai con ngựa, ba con chó cùng hàng hóa và chủ nhân của chúng - sáu người đàn ông đang tiến về hướng mặt trời lặn. Tên ông như con đường lan khắp thế giới Trên những nẻo đường chúng tôi đã qua, có hình ảnh một con người luôn hiện diện. Bạn sẽ thấy tượng đá của ông do người đời nay dựng dưới chân Hắc Sơn, nơi Huyền Bích trường thành của Gia Dụ Quan, hoặc bức bích họa “Xuất sứ Tây Vực đồ” tả cảnh khởi hành đi sứ của ông, có tuổi thọ gần ngàn năm tại hang số 323 của chuỗi hang động Mạc Cao ở thành phố Đôn Hoàng. Dĩ nhiên, trước ông, bao nhiêu con người vô danh, dũng cảm đã góp sức tạo hình cho hệ thống tuyến đường theo chiều Đông - Tây, nhưng nếu không có ý chí kiên cường của ông vượt qua đói khát sa mạc, lưỡi kiếm Hung Nô, cám dỗ của quyền uy và mười năm bị giam cầm nhằm đặt nền móng chính trị - ngoại giao qua hai lần đi sứ gian khổ để khai thông giao thương cho Tây Vực, thì đã không có Con đường tơ lụa phồn vinh suốt hơn ngàn năm Hán – Đường. Sự hiểu biết và thông thuộc Tây Vực của ông trở thành tài sản tạo nên con đường “toàn cầu hóa” đầu tiên của nhân loại cổ đại bằng chân đất. Tên ông vang xa ngoài biên giới, hơn cả uy thế của chúa ông là Hán Vũ Đế. Tư Mã Thiên đã chính thức khắc công lao ông trong sử ký. Dân gian đã kể chuyện về ông, hư và thực, bằng lời, bằng bích họa trong hang động, bằng thảm tranh treo tường. Con người đó chính là “Tây Hán Đại hành gia” Trương Khiên một đời lừng lẫy! Đã đi là đi đến cùng




Tượng đài Trương Khiên dưới chân Hắc Sơn, thành phố Gia Dụ Quan (Cam Túc) - Ảnh: Lê Na
Chuyến xe rời thành phố Gia Dụ Quan đến thành phố Đôn Hoàng sôi nổi chương trình “hỏi đáp trực tuyến” với anh Dương Hiểu Lương - hướng dẫn viên du lịch Cam Túc. Đường Tăng có đến Đôn Hoàng không? Có. Đường Tăng có chứa kinh sách ở hang động Đôn Hoàng không? Không. Kinh sách được đưa thẳng về kinh thành Trường An. Vì sao lúc lên đường Đường Tăng suýt mất mạng khi qua cửa khẩu Ngọc Môn Quan? Vì thời đó, nhà Đường cấm tuyệt người Hán xuất quan sang Tây Vực, Đường Tăng “vượt biên”, thực chất là phạm pháp. Thế còn lúc về? Được Đường Thái Tông đón tiếp như một người anh hùng ngay từ Ngọc Môn Quan đến tận kinh thành Trường An… Đi theo dấu chân của Đường Tăng trên Con đường tơ lụa, từ Tây An đến Gia Dụ Quan, Ngọc Môn Quan, Hỏa Diệm Sơn, chúng tôi phát hiện “công tội” của nhà văn Ngô Thừa Ân qua Tây du ký. Công lớn ở chỗ đã khiến nhà nhà, người người đều biết câu chuyện Tây hành cầu pháp của Đường Tam Tạng. Nhưng “tội ác tày đình” là đã biến pháp sư Huyền Trang trở thành một vị hòa thượng hiền lành, tốt bụng nhưng có lúc nhu nhược, ngây thơ, có lúc cố chấp đến mức gây họa. Kỳ thực, ngài là bậc chân tu đại trí, là nhà thám hiểm đại dũng và là nhà biên dịch Phạn ngữ đại tài của Phật giáo Trung Hoa. Buổi sớm khi chúng tôi đến thăm, nơi Nhạn Tháp lộ, phía nam Tây An, gió thu tràn trên khắp quảng trường, gọi mọi ánh nhìn hướng về tượng đài Đường Tăng. Ngài đang đứng, tay cầm thiền trượng, thân khoác cà sa, mắt nhìn về Tây Trúc uy nghi, mạnh mẽ. Phía sau quảng trường là ngôi chùa nổi tiếng Đại Từ Ân do hoàng gia Đường triều xây dựng, chính là nơi Đường Tăng chủ trì nhiều năm dịch kinh sách tại đây.


Tượng đài Đường Tăng và tháp Đại Nhạn tại thành phố Tây An (Thiểm Tây) - Ảnh: Lê Na
Trong chùa có ngôi cổ tháp nổi tiếng: Đại Nhạn tháp bảy tầng, được xây dựng để chứa kinh sách mà Đường Tăng đã gian khó mang về từ đất Phật Tây phương. Phía sau tháp có Quang Minh Đường chứa xá lợi, tượng thờ và những bức tranh khắc gỗ, khắc đồng hoành tráng tái hiện toàn bộ cuộc đời của ngài. Ngắm nhìn bản đồ hành trình một đời chí lớn của Đường Tăng khắc gọn trên tấm bảng đồng đặt trong khung kính của một gian Quang Minh Đường, nhà văn Phan Thị Vàng Anh (thành viên trong đoàn) chợt ngộ ra thành lời: Chúng ta thường hay thất hứa với chính mình từ những chuyện nhỏ nhất. Còn những con người như Trương Khiên, Đường Tăng, trước hết là những người tuyệt đối giữ lời, đã hứa là sẽ đi, đã đi là phải đi đến cùng! Chúng tôi gọi họ là những người “khổng lồ”, tiêu biểu cho sức mạnh phi thường mang tên con người! Và khám phá Con đường tơ lụa cũng chính là hành trình cho mỗi cái tôi nhỏ bé hôm nay khám phá bản thân trong cái vô cùng lớn mà cổ nhân và lịch sử đã tạo tác. Con đường tơ lụa là tuyến đường giao thương Đông - Tây thời cổ đại, ước hơn 7.000 km. Xuất phát từ Tây An (kinh thành Trường An xưa), qua hành lang Hà Tây (Cam Túc) đến Đôn Hoàng thì chia thành ba nhánh vượt qua Tân Cương. Nhánh nam đi dọc theo rìa nam sa mạc Taklanakan, nhánh giữa đi theo mạn bắc sa mạc Taklanakan, còn nhánh bắc đi theo hướng bắc dãy Thiên Sơn, qua Urumqi… Sau đó xuyên qua các nước Trung Á, Tây Á đến các quốc gia bên bờ Địa Trung Hải.

Theo TTO

Mục lục Bài viết

Văn hoá

Thánh địa giữa sa mạc-Đôn Hoàng

Thánh địa giữa sa mạc
Thứ sáu, 07/12/2007
Photo Sharing and Video Hosting at Photobucket

Photo Sharing and Video Hosting at Photobucket

Một góc chuỗi hang động Mạc Cao -Ảnh: D.Trường


Đôn Hoàng nằm ở vùng "ngã ba" Cam Túc giáp Tân Cương và Thanh Hải. Trong khi thủ phủ Lan Châu chỉ có máy bay nội địa ghé thăm thì Đôn Hoàng đã có sân bay quốc tế, nơi đây đón khách năm châu đến với di sản thế giới hang động Mạc Cao nhộn nhịp bốn mùa.

Theo dấu chân những người "khổng lồ"
Đi vào hành lang Hà Tây
Dấu xưa trường thành

Đặc biệt ưa thích Đôn Hoàng có thể nói là du khách Nhật. Có người năm nào cũng đến, mỗi lần đến ở cả tuần và vào thăm hang động Mạc Cao 5-6 lần. Người Nhật bỏ tiền cùng với Trung Quốc làm phim về Đôn Hoàng. Cần nói ngay là khi các bạn đến đây, thấy trong các tour du lịch có quảng cáo địa điểm "Đôn Hoàng cổ thành" thì xin nhớ ngay cho đó chỉ là thành giả cổ, là phim trường dựng lại (vào năm 1987) thành Đôn Hoàng xưa, diện tích chỉ bằng phân nửa thực tế, để quay bộ phim trên. Nay đã mở cửa đón khách để mọi người hình dung cảnh cũ và mua vui bằng cách cưỡi ngựa, bắn cung, hay hóa trang làm vua, làm tướng, làm hoàng hậu, cung phi... của một thời đã xa.

Công trình ngàn năm

Linh hồn của Đôn Hoàng là chuỗi hang động Mạc Cao cách trung tâm thành phố khoảng 30km chạy ven sa mạc. Đó là một quần thể hàng ngàn hang động do không biết bao nhiêu con nguời đã đục khắc vào sườn núi đá dài khoảng 1.600m suốt hơn ngàn năm, qua 10 triều đại (từ Đông Tấn, Bắc Ngụy, Tây Ngụy, Bắc Chu, Tùy, Đường, Ngũ Đại đến Tống, Tây Hạ, Nguyên Mông). Chỉ riêng thời nhà Đường đã có đến hơn ngàn hang động.

Tất cả đều để chiêm bái, thờ cúng Phật tổ và các vị bồ tát, cũng là để gửi gắm lời cầu mong được về với Phật sau khi rời khỏi trần đời. Có người góp của hay đi quyên tiền. Có người tự nguyện đục đá, tạc tượng suốt mấy năm trường. Có khi một người đào một hang, có khi cả gia đình, cả dòng họ cùng làm một động. Có hang cao hơn 40m, có hang chỉ chừng 1m... T

hời gian đã bào mòn, vùi lấp vô số, đến nay còn 492 hang động đã được đánh dấu, bảo quản và nghiên cứu. Nhưng chỉ với số hang động còn lại đó cũng đủ làm du khách sửng sốt, kinh ngạc trước sức mạnh sáng tạo của người xưa.

Cổng vào chuỗi hang động có tên là "Thạch thất bảo thành" với con đường rợp bóng cây. Mọi máy quay phim, máy chụp ảnh đều phải gửi lại ở bên ngoài. Những dãy hành lang có lan can được dựng cặp theo sườn núi, dẫn lối đi thăm hệ thống các hang động vốn được người xưa xây dựng san sát bên nhau, có chỗ dày đặc chồng chất trên dưới đến năm tầng. Mỗi hang động đều được đánh số, có bảng "lý lịch" kèm theo rất công phu (xây dựng đời nào, trùng tu đời nào, đặc điểm văn hóa, nghệ thuật...) và có cửa khóa chặt! Các cô hướng dẫn viên ở đây mặt tươi như ngọc, da trắng như núi tuyết, giọng nói to rõ và ngọt như dưa lê.

Mỗi cô tay cầm một đèn pin và một xâu chìa khóa, mở cửa và thuyết minh riêng cho tốp khách do mình dẫn đường. Giá vé 160 tệ, du khách được tham quan mười điểm trong khoảng bốn giờ, trong đó có năm hang động bắt buộc và năm điểm tự chọn hay thỏa thuận theo gợi ý của hướng dẫn viên. Trong ánh sáng mờ tối hòa với ánh đèn pin và giọng thuyết minh lung linh, một thế giới nghệ thuật mang sức nặng tâm linh giữa lòng đá núi kỳ vĩ hiện ra thật ấn tượng.

"Cung văn hóa nghệ thuật"


Photo Sharing and Video Hosting at Photobucket

Cửu tầng lầu nhìn từ bên ngoài, bên trong là tượng Phật Di Lặc cao 35,5m

Năm 366, khi hòa thượng Nhạc Tôn (có tài liệu ghi là Lạc Tăng) đi qua sa mạc Minh Sa lúc trời chiều, chợt thấy nơi dãy núi đá Tam Nguy phát ra ánh sáng rực rỡ như muôn nghìn Phật hiện lên giữa lấp lánh kim quang, liền chọn nơi đây làm nơi dừng chân, phát nguyện đào tạc động đá thành nơi tu hành.

Sau đó, có hòa thượng Pháp Lương khai mở hang động thứ hai. Không ai ngờ rằng ốc đảo xanh tươi nhỏ nhoi giữa biển cát mênh mông này dần dần trở thành thánh địa, ánh đèn thờ Phật lấp lánh, khói lam lòng thành lan tỏa ngày đêm và động đá cứ ngày một nhiều lên. Các nhà truyền bá Phật giáo vượt qua sa mạc hàng tháng trời trong nắng gió vất vả và hiểm nguy đều dừng chân nơi đây nghỉ ngơi và hành đạo.

Các đoàn thương lữ trước khi xuất quan cũng dừng lại nơi này chuẩn bị lương thực thực phẩm cho một chuyến đi xa, đồng thời để dâng hương lễ Phật, cúng dường, cầu mong bình an, tài vượng. Còn các thương khách khi trở về vô sự cũng ghé qua đây cảm tạ Phật tổ, bồ tát độ trì. Cơ duyên hội tụ đã biến Mạc Cao thành "Thiên Phật động" vang danh ngàn dặm, dẫu nép mình trong sa mạc hẻo lánh.

1.600 năm đã qua. 492 hang động, hơn 3.000 bức với khoảng 4,5 vạn m2 bích họa, hơn 2.000 pho tượng Phật, hơn 4 vạn văn thư, văn vật và năm tòa kiến trúc gỗ còn giữ lại được đến hôm nay đã khiến Mạc Cao, Đôn Hoàng trở thành một "cung văn hóa nghệ thuật" khổng lồ. Vừa đồ sộ, hoành tráng, vừa tinh vi, tỉ mỉ đến từng chi tiết. Đó là "bộ bách khoa thư” về lịch sử, văn hóa của Phật giáo cổ đại với mỹ thuật (bích họa, phù điêu, tượng màu), kiến trúc (hang động, gỗ đá) và vũ nhạc (trên bích họa và kinh sách). Để chiêm ngưỡng cho hết, cần một phần đời! Để thấu hiểu cho sâu, cần nhiều đời người!

Rời hang động Mạc Cao, tôi chợt nhận ra ngay sức nhìn, sức nghe, sức cảm và sự hiểu biết của chính mình hạn hữu biết chừng nào!

5 hang động giới thiệu với khách tham quan
* Tàng kinh lầu, rộng chỉ 19m2, năm 1.900 phát hiện trong hang này chứa hơn 5 vạn kinh sách, văn thư, tranh lụa, đồ thờ cúng...
* Kim bích động, thời nhà Đường, với các bức bích họa được tô bột vàng, dát vàng lá, thể hiện văn hóa Tây Vực.
* Cửu tầng lầu, tượng Phật Di Lặc khắc vào vách núi, cao 35,5m, bên ngoài có tháp bao bọc, cao chín tầng, nghệ thuật thời Đường.
* Tượng Phật Di Lặc, cao 26m, đục hẳn trong núi, nền sâu dưới mặt đất 10m để ngắm từ dưới lên, hai bàn tay Phật được điêu khắc đẹp mệnh danh là "Đông phương đệ nhất mỹ thủ”.
* Tượng Phật tổ nằm, động đục âm vào đá theo hình dáng quan tài, tượng Phật tổ tư thế nằm, đầu hướng nam, chân hướng bắc, chiều dài 15m, chung quanh là các bích họa kể chuyện đức Phật nhập Niết bàn.


Theo TTO

Girls Generation - Korean